Viêm họng là viêm cấp niêm mạc hầu (hầu là ngã tư giao lưu của các đường hô hấp và tiêu hóa). ít khi viêm lan tỏa toàn bộ hầu mà thường chỉ khu trú ở các amiđan (viêm amiđan).
Nguyên nhân gây viêm họng là các virut, đôi khi cũng là vi khuẩn (nhiễm khuẩn do liên cầu khuẩn, tụ cầu khuẩn hoặc haemophilus). Viêm họng rất hay gặp ở những người bị sổ mũi hoặc cúm; hãn hữu nó là dấu hiệu báo trước của một bệnh khác nặng hơn (tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn hoặc bạch hầu). Có ba loại viêm họng: viêm họng đỏ, viêm họng trắng và viêm họng loét.
Viêm họng đỏ
Niêm mạc hầu đỏ hơn bình thường. Có nhiều loại viêm họng đỏ:
- Viêm họng đỏ xuất tiết: Loại này hay gặp nhất, chủ yếu ở trẻ em dưới 10 tuổi. Sốt, nuốt đau, đau đầu. Khám họng thấy niêm mạc hầu đỏ hơn bình thường, các amiđan to nhiều hay ít. Có thể có biến chứng viêm tấy quanh amiđan (áp xe giữa thành hầu và amiđan) gây cứng khít hàm (co cứng các cơ nhai) và khó nuốt.
- Viêm họng trong các bệnh phát ban: Ðây là triệu chứng chủ yếu của các bệnh tinh hồng nhiệt, sởi, rubêon.
- Viêm họng liên cầu khuẩn của thấp khớp cấp: Viêm họng thường xuất hiện nhiều ngày hoặc nhiều tuần trước khi có biểu hiện thấp khớp cấp. Bệnh nhân nôn, đau đầu, amiđan viêm to. Xét nghiệm thấy liên cầu khuẩn tan huyết nhóm A; loại này có thể gây những tổn thương ở khớp, tim, thận.
Ðiều trị
Bệnh nhân cần nghỉ ngơi, tránh bị lạnh. Ăn nhẹ, uống nhiều nước. Dùng các thuốc súc miệng, phun họng, kháng sinh đường toàn thân như penixilin kèm với thuốc giảm đau, chống viêm, hạ nhiệt... Nếu bệnh nhân hay tái phát, nên phẫu thuật cắt bỏ amiđan.
Viêm họng trắng
Niêm mạc hầu phủ một lớp bựa trắng. Có nhiều loại viêm họng trắng:
- Viêm họng bựa: Triệu chứng cũng giống như viêm họng đỏ nhưng trên mặt amiđan có phủ một lớp bựa trắng có thể bóc ra một cách dễ dàng.
- Viêm họng có màng giả: Tạo nên một lớp bựa dính chắc hơn (màng giả có màu xám) khiến ta phải nghi là bệnh bạch hầu. Cần xét nghiệm vi khuẩn cẩn thận; nếu hơi có chút gì nghi ngờ phải tiêm huyết thanh chống bạch hầu ngay để khỏi bỏ qua bệnh này. Loại viêm họng này thường là dấu hiệu báo trước của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn.
- Viêm họng mụn nước và viêm họng hecpet (mụn rộp) do virut bệnh zona và virut hecpet. Khám thấy vùng khẩu hầu có màu đỏ rải rác có nhiều mụn nhỏ trắng còn lành hay đã vỡ, giống như những nốt loét nhỏ.
Ðiều trị
Bệnh nhân cần phải nghỉ ngơi, tránh bị lạnh. Dùng các thuốc súc miệng, phun thuốc vào họng, kháng sinh đường toàn thân. Tuy nhiên kháng sinh không có tác dụng với viêm họng mụn nước trừ khi có bội nhiễm vi khuẩn. Thông thường chỉ cần dùng thuốc giảm đau là đủ.
Viêm họng loét
Niêm mạc hầu có một hay nhiều nốt loét. Có nhiều loại viêm họng loét:
- Viêm họng Vincent: Chủ yếu gặp ở vị thành niên hoặc người trẻ tuổi. Bệnh có đặc điểm là phát triển đồng thời ở niêm mạc hầu hai loại vi khuẩn là trực khuẩn hình thoi và xoắn khuẩn. Chẩn đoán dễ dàng bằng xem kính phết họng dưới kính hiển vi sau khi đã nhuộm vi khuẩn (nhuộm Gram). Thường chỉ một bên hầu bị tổn thương: viêm amiđan một bên với những nốt loét mềm mại khi sờ vào và có màng giả. Ðây cũng có thể là do không giữ tốt vệ sinh răng miệng.
- Viêm họng Duguet: Gặp ở bệnh nhân thương hàn. Ðặc điểm là: nốt loét không đau khu trú ở một hoặc hai cột màn hầu.
- Viêm họng trong các bệnh máu: Hay gặp ở bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn hoặc bệnh bạch cầu (leucémie).
- Viêm họng Ludwig: Sốt cao, đau nhiều ở họng, cổ bị biến dạng.
Ðiều trị. Chủ yếu là dùng penixilin và điều trị nguyên nhân gây bệnh.
Theo skds
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét